Cuộc tìm kiếm tâm linh có vẻ như diễn ra trên nhiều cấp độ khác nhau nhưng cuối cùng chúng có một nguồn chung, một mong muốn sâu sắc được biết, được là cái biết. Mọi cuộc luận bàn về bản chất của tâm linh phải tính đến điều này và không chú trọng vào những sự khác biệt mang tính tương đối. Cuộc đối thoại phải hướng đến cái động cơ tối hậu luôn có ở bất kỳ thời điểm nào và chính động cơ trong câu hỏi là thứ cần được giải quyết chứ không phải sự mâu thuẫn trong công thức câu hỏi.
Trong cuộc gặp đầu tiên với một người thầy, dấu hiệu nào chứng tỏ rằng chúng ta đã gặp đúng người?
Chân lý tức thì sẽ khiến cho ta cảm thấy nó trong lần tiếp xúc đầu tiên với một lời dạy, toàn bộ cuộc sống của bạn sẽ đi theo một hướng khác. Bạn nhận ra rằng bạn có một triển vọng hoàn toàn mới, bạn cảm thấy độc lập hơn, thói quen, cảm xúc, tình cảm của bạn và các quyết định trở nên rõ ràng hơn. Bạn cảm thấy rằng suy nghĩ của bạn và những việc bạn làm được sắp xếp lại và tập trung lại. Sự thay đổi này xảy ra mà không hề do ý muốn
của con người dù là nhỏ nhất. Cảm giác trước về sự thật này có ý nghĩa quyết định trong việc loại bỏ cái sai. Chúng ta thấy rõ ràng cách mà ta coi những thứ không phải mình là bản thân mình, và tất cả các hành động, suy nghĩ, ý tưởng của chúng ta về thành công và thất bại, thực và không thực,
nảy sinh ra ra từ cái ý tưởng sai lầm về sự tồn tại. Từ quan điểm phi cá nhân mới, duy chỉ cái thực chất, mang tính phi cá nhân tồn tại. Cái cá nhân xuất hiện như một sự chồng chất trên thực tại. Nó là một cái tên, một hình thức, bị giới hạn bởi thời gian và không gian, do hoàn cảnh tạo ra.
Chân lý, thứ mà có thể biết mà không cần qua trung gian, là điều không thể nghĩ bàn. Nó không thể được nghĩ tới, ta chỉ có thể sống như là nó. Niềm khao khát được tự chủ, tự có ý thức mà không cần thông qua một đại diện trung gian, có nguồn gốc của nó trong chính ý thức. Đó là lời kêu gọi từ sâu bên trong bạn, từ nơi gần nhất của bạn. Nó không thể được biến thành một đối tượng của sự ham muốn. Khi bạn hiểu điều này, năng lượng để duy trì cái không thực sẽ được giải phóng và quay trở lại nguồn gốc của nó, Chân Ngã tối thượng, Chân Lý.
Cuộc sống không là gì ngoài sự đau khổ. Thế gian liên tục trong sầu thảm. Bạn có nói gì về điều này không?
Đau và khổ được cảm nhận bởi một cá nhân. Cá nhân này gọi sự vắng mặt của khoái lạc là khổ. Nhưng những điểm bổ sung này là những trạng thái được nhận thức trong ý thức. Do đó, ta thấy rõ ràng rằng cái nhận thức khác biệt với những gì được nhận thức. Con người, cá nhân, bản ngã, chỉ là một đối tượng của nhận thức. Đó chỉ là do thói quen và sai lầm mà chúng ta đồng hóa bản thân mình với sự nhận thức của chúng ta và chính điều này là nguyên nhân của tất cả đau khổ của chúng ta.
Con người chỉ tồn tại trong cấu trúc của đau đớn và khoái lạc. Bản ngã duy trì bản thân bằng cách mãi mãi tìm kiếm cái này và chạy trốn khỏi cái kia; nó sống trong sự lựa chọn liên tục, trong ý định liên tục. Tri kiến sâu sắc đầu tiên là thứ cho chúng ta thấy rằng tất cả ý định, tất cả ý chí là để thoát khỏi những đau khổ phải gánh chịu là bởi cái bản ngã ảo tưởng. Lựa chọn, đạt được và tham vọng là sự phóng chiếu năng lượng không cần thiết. Một đối tượng tự thân nó không hề chứa đựng đau khổ hay khoái lạc, mà hoàn toàn phụ thuộc vào con người đằng sau nó. Chúng ta không thể nhìn thấy tất cả các yếu tố của một tình huống như những sự thật đơn giản, nói cách khác, chấp nhận tình huống đó, là do những lựa chọn của cái nhân cách ảo tưởng. Chúng ta đau khổ nhưng khổ và đau đớn là những chỉ điểm mạnh mẽ, mời gọi chúng ta tìm hiểu xem là ai đang đau khổ.
Hỏi câu hỏi này với một khao khát sâu sắc, điểm trọng tâm sẽ được thay đổi từ đối tượng được nhận thức đến cái nhận thức tối hậu, thứ có bản chất là niềm vui vượt trên cả khoái lạc và đau khổ. Theo cách này, chúng ta có thể nói rằng đau khổ dẫn đến niềm vui.
Suy nghĩ đóng vai trò gì trong việc tìm kiếm sự thật?
Khi ta coi mình là một thực thể riêng biệt, suy nghĩ được sử dụng bởi hầu hết con người như một công cụ xâm lược và phòng thủ. Suy nghĩ bao gồm quá khứ, ký ức, nhưng có khả năng nhận ra những giới hạn của riêng nó, và cuối cùng nhường chỗ cho cái nguồn của nó, sự tĩnh lặng, sự hiện hữu. Nó phát sinh từ tĩnh lặng và mất đi chính nó trong tĩnh lặng. Vì vậy, chức năng của nó là chỉ hướng tới nơi mà từ đó nó phát sinh, cái tối hậu không thể nghĩ bàn được.
Suy nghĩ luôn được chỉ huy bởi bản ngã để xây dựng sự tồn tại của nó, vậy chẳng phải là ý tưởng về bản ngã đã ăn sâu vào trong chúng ta hơn cả suy nghĩ?
Bản ngã không là gì ngoài một suy nghĩ trong số nhiều suy nghĩ khác. Nó là một sản phẩm của ký ức, của quá khứ. Tin rằng bản thân là một thực thể riêng biệt, nó tự bảo vệ mình bằng cách xây dựng một màn hình và phản ứng chống lại bất cứ điều gì có thể đe dọa sự tồn tại được cho là có tính liên tục này. Niềm tin này là nguyên nhân của sự kích động, lo lắng và hoạt động phân tán.
Nhưng làm thế nào chúng ta có thể giải thoát mình khỏi bóng ma này và cái màn hình của nó?
Cái bản ngã đấu tranh để tồn tại hoặc bám vào những ký ức tích lũy của nó, hoặc phóng chiếu những mong muốn trong tương lai, do đó sử dụng mất một lượng năng lượng đáng kể. Tích lũy, lựa chọn, xây dựng, tất cả đều diễn ra trên một mặt phẳng nằm ngang, trong thời gian và có một khoảng thời lượng. Năng lượng liên tục quay ngược trở lại chính nó, tạo ra một vòng luẩn quẩn. Đừng dính vào chuyển động này, sự phân tán này, sự dao động vô ích giữa quá khứ và tương lai, hãy đặt những năng lượng duy trì các khuôn mẫu thói quen này ngơi nghỉ, và cuối cùng chúng ta thức tỉnh tới sự nhận thức giải thoát. Sau đó, năng lượng hội tụ theo chiều dọc trong cái hiện tại vĩnh hằng. Duy chỉ sự nhận thức mà không liên quan gì đến hoạt động tinh thần, không tham chiếu về quá khứ, đã thoát khỏi thói quen thể xác và tâm lý, thoát khỏi sự lựa chọn và sự lặp lại, mới có thể mở ra cánh cửa sự thấu hiểu tự phát. Sự trực ngộ tiêu hủy mọi lỗi lầm và năng lượng đã tạo thành những lỗi lầm trước đó sẽ biến mất khỏi nó và tái hợp vào sự thật, là sự hiện hữu.
Hãy cố ý trở nên tĩnh lặng thường xuyên nhất bạn có thể và bạn sẽ không còn là con mồi cho ham muốn được thế này hay thế khác. Bạn sẽ khám phá ra trong những sự kiện hàng ngày của cuộc sống có ý nghĩa sâu xa đằng sau
sự hoàn thành của cái toàn thể, vì bản ngã đã hoàn toàn không còn. Cuộc sống của bạn liên tục ở trong chiến lược, trong những kỳ vọng liên quan, bắt nguồn từ khuôn mẫu lo lắng/mong muốn và nó đã cản trở bạn tìm ra thứ mà bạn đang tìm kiếm, thứ mà trong thực tế chưa bao giờ bị mất. Việc đánh đu một cách bị kích động từ quá khứ sang tương lai đang ngăn cản bạn sống trong sự toàn vẹn hiện tại. Ở trạng thái tự nhiên của bạn, không cần nhắc nhở vì không có gì bị quên lãng.
Suy nghĩ và cảm xúc lên xuống và chảy như thủy triều, bạn đồng hóa với chúng và nói: “Suy nghĩ của tôi, cảm xúc của tôi.” Cơ thể là một khối dày đặc những cảm giác ít nhiều được khu trú. Tâm trí cũng là một tập hợp các khuôn mẫu suy nghĩ và cảm xúc; nhưng cơ thể và tâm trí của bạn chỉ là những biểu hiện của Chân Ngã, bạn tồn tại bởi vì bạn là một biểu hiện của ý thức thuần khiết. Bản chất của bạn là tỉnh táo và nhận thức được những gì xuất hiện trong bạn, nhưng bạn phải nhận biết một cách có chủ ý, biết rằng bản thân đang nhận thức. Bạn là cái biết tối hậu của tất cả mọi thứ; sự nhận thức trực tiếp đánh thức bạn tới cuộc sống này, tới sự tồn tại này.
Bạn không thể biết chân tánh của mình thông qua phân tích logic. Hãy để thiền định nở hoa trong cuộc sống hàng ngày mang tới sự viên mãn của nó.
Khi chúng ta sống trong “hiện tại”, có phải chúng ta có luôn luôn sáng tạo không?
Tất cả các tiềm năng đạt được sự hoàn thiện tùy theo năng lực nội tại chúng, nhưng chúng ta không phải là những tiềm năng này. Mọi thứ tự theo quy trình tự nhiên của chúng mà không có bất kỳ sự can thiệp nào về phía con người. Bạn sáng tạo khi bạn không tìm kiếm gì, khi bạn không làm gì cả. Mọi thứ tự hoàn thành bên trong bạn mà bạn không cần phải cố ý tham gia. Hãy hiến dâng trọn vẹn trái tim và trí tuệ của bạn cho bất cứ thứ gì đang thể hiện chính nó từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc tiếp theo, hãy để mọi khoảnh khắc chết đi và chào đón khoảnh khắc tiếp theo.
Tôi chắc chắn rằng mọi thứ tự hoàn thành bản thân chúng bên trong một người mà không cần bất kỳ nỗ lực nào khi họ đã được mở ra, nhưng chẳng phải ta vẫn cần một lượng tập trung nhất định trước khi người ta đạt đến được độ mở này? Ngược lại khi bạn nói “không có gì để làm”, nó dường như dẫn đến việc bỏ cuộc một cách thụ động.
Trong sự tập trung, bạn dự đoán những thứ thuộc về cái đã biết. Chính là cái đã biết che phủ đi niềm bất ngờ. Trong sự chấp nhận mang tính chủ động những điều bất ngờ đến với bạn.
Khi tôi nói, “Không có gì để làm”, ý tôi là không có gì để phóng chiếu và không có người làm. Sống không có ký ức. Chẳng có gì bị động trong sự không-làm. Nó cực kỳ tỉnh giác, là sự sẵn sàng về tinh thần và thể chất, sự chào đón tận tình với cuộc sống khi nó đến với bạn. Sự chào đón này không nhằm mục đích là sự đầu hàng theo chủ nghĩa định mệnh mà trong đó vẫn còn sót lại của việc đạt được điều gì đó. Nó là sự chào đón vì lợi ích riêng của nó. Sự chào đón, sự cởi mở, là bản chất của cuộc sống.
Đối với tôi, dường như có suy nghĩ được kích thích bởi trí nhớ và có suy nghĩ tự phát.
Suy nghĩ có chủ đích sử dụng những điều đã biết, của ký ức. Suy nghĩ tự phát bắt nguồn từ nguồn sống không ngừng lan tỏa. Không sớm thì muộn, các mô thức tư duy được xây dựng bởi bản ngã trong khả năng tự vệ của nó sẽ mất đi tác động cảm xúc của chúng và được tái hấp thu vào cái toàn-khả-năng, thứ mà chúng chỉ là một phần trong nó. Một tâm trí chứa đầy những suy nghĩ liên quan đến cái đã biết không có khả năng tiếp thu dòng chảy của cuộc sống, thứ chảy từ cái toàn-khả-năng.
Ký ức được định vị ở đâu?
Ký ức mang quan niệm được định vị trong bộ não. Nó là sự cảm quan được cụ thể hóa. Đó là sự nhận biết về tên và hình thức. Khi chúng ta chỉ sống trong quan niệm và sự nhận biết, chúng ta đang sống trong trừu tượng. Khi nói trừu tượng, ý tôi là chúng ta sống tách biệt khỏi sự nhận thức, ở dạng phân mảnh. Không bao gồm cơ thể. Sự hiểu biết thực sự về sự vật là sự hiểu biết toàn thể trong đó cơ thể góp phần.
Ngoài ra còn có ký ức hữu cơ được duy trì trong tế bào của cơ thể. Cơ thể có thể nhớ lại nó, nhưng cũng giống như ký ức quan niệm tách chúng ta khỏi cảm quan về một bông hoa, chúng ta đang sống trong sự trừu tượng ngay từ sự cảm quan về cơ thể thực tế của chúng ta. Trí nhớ hữu cơ này thường bị tê liệt bởi một trí tuệ hoạt động quá mức, một trí tuệ bị điều khiển bởi ham muốn và suy nghĩ có chủ định.
Thiền định đóng vai trò gì trong việc loại bỏ ảnh hưởng của ký ức?
Thiền định chân chính có nghĩa là sự vắng mặt của một thiền giả và một cái gì đó được thiền quán, sự vắng mặt của mối quan hệ chủ thể/đối tượng. Chỉ thiền định chân chính, nhận thức vượt thời gian này, mới có thể giải phóng chúng ta khỏi xiềng xích của các phản ứng tự động thực hiện bởi suy nghĩ và ký ức. Sự hiện diện này giải phóng và điều chỉnh năng lượng tham gia vào những phản ứng, dù cho không có bất kỳ mong muốn nào để làm như vậy.
Có mối liên hệ nào giữa trạng thái vĩnh cửu và trạng thái của thiền định không?
Trạng thái thiền định là bản chất thực sự của chúng ta, nói nó là một trạng thái thì không đúng lắm. Nó là chính cái thực chất, cái nền tảng cho tất cả
mọi trạng thái. Không có dự đoán, không có phóng chiếu, không có phấn đấu hướng tới một mục tiêu hoặc một kết quả nào. Đó là sự hiện diện tĩnh lặng. Chúng ta không thể phân biệt bên trong hay bên ngoài, bởi chúng ta không thể định vị nó về mặt thể chất hoặc tinh thần. Vượt thời gian và không gian, nó là sự hiện hữu bản thể.
Thiền định là gì? Chúng ta nên thiền như thế nào?
Trước hết, hãy tự hỏi bản thân tại sao bạn muốn thiền. Đừng nghĩ về nó, chỉ cần nhìn vào bất cứ điều gì đang thể hiện chính nó mà không cần cố gắng trích xuất một câu trả lời. Bạn không bao giờ có thể thiền định
một cách cố ý. Bạn chỉ có thể học cách buông bỏ những điều không phải là thiền. Mọi nỗ lực để loại bỏ hoặc trở thành thứ gì đó đều vô ích bởi vì
bản thân sự nỗ lực cũng là một phần của những gì bạn đang cố gắng loại bỏ.
Sự hiểu biết toàn thể, sự nhận thức tức thời, cắt bỏ tất cả ý định và động cơ đằng sau nó. Sự chú tâm được đặt trên các đối tượng, trên sự khó chịu, mất dần đi mà không có bất kỳ ai can thiệp. Một sự trống rỗng lặng lẽ bao trùm chúng ta. Ở đây có thiền định, sự viên mãn và tình yêu; trong cái Tối Thượng không có ham muốn để yêu hoặc được yêu.
Tất cả các đối tượng của thiền định hoặc sự tôn thờ, tất cả các hình ảnh đại diện của Ishtamurti, là những sáng tạo tinh thần, sự phóng chiếu những phẩm chất của thánh thần, giữ chúng ta trong mối quan hệ chủ thể/ đối tượng bằng cách kích thích tình cảm của chúng ta. Những đại diện như vậy có hiệu quả chỉ khi người thờ phụng hoàn toàn tan biến trong người được thờ phụng để không còn cảm xúc hoặc đại diện.
Các giác quan và khả năng tinh thần, liên tục đến và đi, xuất hiện và biến mất, không bao giờ có thể góp phần trong trải nghiệm về cái Tối Thượng, tính liên tục. Cái Tối Thượng vượt qua suy nghĩ và giác quan. Bất kỳ đối tượng nào cũng là một con trỏ hướng tới thực tại tối hậu nhưng chúng ta phải đưa nó trở lại hình thức chung của nó, do đó ta loại bỏ bản chất luôn có thể thay đổi của nó, để hé lộ nguyên thể của nó, là cái thực tại sống mà nó là một với chúng ta.
Để tiếp cận cái nguồn, nguyên thể của Ishtamurti, hình thức và ý tưởng phải được loại bỏ hoàn toàn. Nhiều người tìm kiếm đã bị cuốn vào mạng lưới của chủ thể/đối tượng và thấy mình phải đối mặt với một đối tượng cuối cùng, là một trạng thái trống rỗng. Đối tượng đã được cắt giảm xuống hình thái chung của nó, nhưng tiềm năng bất phân biệt này sau đó lại trở thành một đối tượng, và không thể trở về nhà. Nó luôn đe dọa sẽ lại trở nên khác biệt. Cần có một nỗ lực nhất định để duy trì trạng thái trống rỗng này. Đối với những người bị mắc kẹt trong tính nhị nguyên tinh tế này, trạng thái trống rỗng trở thành một bí ẩn mà tâm trí không bao giờ có thể giải quyết. Củng cố sự điều kiện hóa mang tính nhị nguyên bằng cách đưa nó đến những cấp độ tinh tế nhất, người tìm kiếm chân lý không bao giờ có thể thoát khỏi ngục tù tự tạo này. Đó là một bí ẩn bi kịch mà chỉ có những trường hợp có phước một cách bất ngờ mới có thể hóa giải.
Những trường hợp có phước này có nhất thiết phải bao gồm sự hiện diện của một người thầy?
Không cần thiết. Cuộc sống đầy rẫy những điều bất ngờ và có những trường hợp có thể đưa bạn ra khỏi tâm trí. Ví dụ, trong sự ngạc nhiên hoặc ngưỡng mộ, bạn ở trong tình trạng không có tâm trí và trong sự viên mãn của bạn bởi vì bạn được đưa ra bên ngoài mối quan hệ chủ thể/đối tượng. Những trường hợp như vậy rất hiếm. Một chân sư cũng hiếm nhưng một khi ta đã gặp, thì người sẽ kích thích cái hiện diện đằng sau tâm trí. Là sự hiện diện của người thầy có quyền năng đánh thức sự hiện diện mang tính bất nhị của người đệ tử.
Người thầy có bao giờ hành động với chủ đích không? Anh ấy hoặc cô ấy có bao giờ sử dụng sức mạnh của họ để kích thích sự tự do?
Sử dụng bất kỳ quyền năng nào cũng đều thuộc về tâm trí, bản ngã, và tất yếu sẽ cố định người đệ tử trong tư cách môn đệ. Điều này xảy ra rất thường xuyên trong thế giới guru!
Chỉ có mối quan hệ trong tâm trí là có sự ràng buộc. Trong sự tự do khỏi tâm trí, bạn sống tự chủ. Không thể có chủ đích trong những câu nói hoặc hành động của một người thầy chân chính.
Như vậy người thầy không giải thoát xung đột, người khiến đệ tử tự giải thoát chính mình?
Người thầy được thiết lập trong sự bất nhị và, thông qua hoặc sự hiện diện và những lời nói của anh ấy, cho người môn đồ thấy rằng anh ta là cái biết của bí ẩn này. Khi người đệ tử được thuyết phục rằng anh ta là cái biết của trạng thái trống, anh ta cởi mở với chiều kích mới của sự hiện diện bất nhị. Trong sự cởi mở này, năng lượng bị cố định để duy trì trạng thái trống tan biến. Ngôn từ của người thầy đến trực tiếp từ sự tự do mà người đệ tử đang khao khát sâu sắc nhất và họ đánh thức sự tự do này bên trong người đệ tử. Vị guru không giải thoát cho đệ tử mà đưa anh ta đến đến cái ngưỡng mà sự tự do tồn tại. Đệ tử bị chiếm lấy bởi chính sự tự chủ của mình. Sau đó, dường như đối với anh ta là anh ta không đắc được thứ gì nhưng anh ta vốn đã luôn được tự do. Anh ta thấy rằng trạng thái trống rỗng thuộc về tâm trí và anh ta bây giờ đã mãi mãi ở bờ bên kia.
Khi bạn nói rằng không có gì để làm hoặc để học, chỉ có tháo gỡ những thứ đã làm, bỏ đi những thứ đã học, đó có phải là một trò chơi chữ? Có vẻ như
bỏ đi những thứ đã học cũng là một hình thức học tập và còn khó khăn hơn nhiều so với việc tiếp thu kiến thức.
Trạng thái tự nhiên của chúng ta không cần phải học. Có những con đường mà ta phải gỡ bỏ những sự học sai lầm nhưng đây chỉ là một con đường tiến bộ mà cuối cùng vẫn là một cách học mới. Hãy thoát ra khỏi học và không học, làm và không làm. Không cần phải cố ý nỗ lực mới thấy rằng bạn đã bị điều kiện hóa . Trong sự nhìn thấy tất cả, bạn không phải ở trong một khoảnh khắc, không có trạng thái nào khác được phóng chiếu bởi vì ta
không thể hình dung được một trạng thái không bị điều kiện hóa. Vì vậy, khi đã nhìn thấy cái gì là sai giả, có một sự buông bỏ tự phát và tất cả những gì còn lại là trạng thái không điều kiện, không thể hình dung được, đó là bạn.
Đó là lý do tại sao con đường trực tiếp rất đơn giản, bạn an trú trong sự quan sát và phần còn lại sẽ tự chăm sóc bản thân nó, giống như 80% hoạt động thường ngày của chúng ta là tự động vận hành.
Trí phân biệt hoạt động như nào?
Nhìn những sự thật đúng như chúng là là trí phân biệt, nhưng để thấy
sự thật thì cái người phân biệt phải biến mất. Tánh phân biệt như vậy chỉ diễn ra khi không có người điều khiển, không có người để thực hiện nó.
Những thói quen nào củng cố bản ngã?
Những thói quen như dính mắc với mọi thứ, nhìn lại quá khứ, hồi tưởng những trải nghiệm trong quá khứ và nội dung cảm xúc của chúng, mơ tưởng và huyễn mộng trong việc tìm kiếm sự an toàn cho sự tồn tại liên tục của con người, tất cả đều làm củng cố bản ngã. Con người là hiện tượng của thời gian nhưng sự hiện hữu thì vĩnh hằng.
Bản chất thực sự của bạn vượt qua tâm trí và cơ thể. Đây là lý do tại sao câu hỏi “Ta là ai” không bao giờ có thể trả lời được. Nó không có giữ lấy bạn: tất cả các khái niệm tham chiếu bị trôi đi và bạn thức dậy tới sự tĩnh lặng, thứ là là câu trả cho tất cả. Tìm kiếm chính mình theo cách nào đi nữa cũng là một sự lãng phí thời gian hoàn toàn. Điều này phải trở thành một sự thật hoàn toàn hiển nhiên với bạn. Đừng đặt những câu hỏi bất tận về cái hiển nhiên này. Cuộc sống là thứ ở trong cái “hiện tại” vượt thời gian. Vì vậy, đừng tích lũy nhiều thứ hơn, đừng học những cách mới để thiền hoặc thư giãn hoặc thanh lọc. Tất cả sự tích lũy các trạng thái, cảm giác và kỹ thuật này là không có gì ngoài sự phù phiếm. Nó vẫn thuộc về con người đang tìm kiếm sự an toàn và xác nhận. Xung đột và các vấn đề đều bắt nguồn từ từ tâm trí khi nó cố gắng biện minh cho sự tồn tại của nó. Khi bạn đột nhiên thấy điều này, trong lòng tin hoàn toàn của sự nhận thức tổng thể, bạn trở nên ý thức về cái mà bạn chưa bao giờ ngừng là: niềm hạnh phúc vô biên của Chân Ngã.