Đó là một căn nhà gỗ thoáng mát và không trát vữa, thích hợp để tiếp đãi một vị nam thần du hành và là nơi một nữ thần có thể lết bộ váy của mình vào. Những cơn gió thổi qua nơi ở của tôi giống như quét qua các rặng núi, mang theo những giai điệu đứt quãng, hay đó là những mảnh của các thiên nhân, của âm nhạc trần thế. Gió sớm thổi mãi, bài thơ tạo hóa không gián đoạn; nhưng ít ai có tai nghe được. Đỉnh Olympus là khắp mọi nơi bên ngoài trái đất này.
-H.D. Thoureau
MAYA VÀ TÔI ĐÃ ĐẾN ĐÂY vào cuối tháng mười một. Đó là lúc trời đã vào thu, mọi màu sắc đã biến mất ngoại trừ màu xanh của hoa đỗ quyên, ngày xám xịt và mưa. Người tài xế taxi của chúng tôi rất vui vì cuốc xe dài nhưng không mấy hài lòng với vài dặm cuối cùng, khi phải leo lên một con đường rải sỏi gồ ghề mà chỉ có một chiếc xe bốn bánh nghiêm túc mới có thể đi được. Trong hai mươi phút, chúng tôi đã đi được nửa chặng đường trước khi anh ấy cảm thấy đầy hối lỗi khi phải thực hiện một pha quay đầu xe mất năm lần tiến lùi. Từ GPS, anh ấy đã đoán rằng chúng tôi chỉ cách địa chỉ đó một dặm (Nd: 1 dặm = 1,6km). Nhưng không phải vậy.
Chúng tôi lên taxi ở nơi tôi đã trả chiếc xe thuê tự lái mà chúng tôi đã ngồi trên đó suốt mười tiếng đồng hồ trước đó. Bây giờ tài xế đề nghị đưa chúng tôi quay trở lại, nhưng Maya và tôi đã xuống xe và bắt đầu đi tiếp chặng đường còn lại bằng chân. Nam Appalachia là nơi đến, một trong những phần đất khá cao. Không khí loãng, ẩm ướt và lạnh lẽo nhưng không khó chịu. Thứ sương mù mà chúng tôi bước vào chính là những đám mây mà chúng tôi đã nhìn thấy từ bên dưới, gần tấm biển cho biết tiểu bang đã không bảo dưỡng con đường đi qua điểm này. Nơi chúng tôi đứng không cao lắm, nhưng cao hơn miền Đông Hoa Kỳ gần một dặm.
Chúng tôi đi bộ và khám phá. Tôi nhìn thấy những cái cây bị móng vuốt tàn phá và biết rằng đó là do gấu gây ra. Tôi cũng thắc mắc về linh miêu, thợ săn mặt trăng, người nấu ma túy đá, những kẻ săn trộm nhân sâm, thợ rừng và linh dương đầu đồng, và hy vọng tất cả chúng đều đang ngủ đông. Maya đánh hơi xung quanh một chút và thỉnh thoảng dừng lại nhìn chằm chằm vào khu rừng trắng đục, cảm nhận được thứ gì đó nằm ngoài tầm nhìn của tôi, nhưng đã không có ai nhào ra giết chúng tôi.
Tôi có thể nhìn thấy từ dấu vết trên đường rằng chỉ có những phương tiện có lốp cứng mới đi được đến đây. Có lúc chúng tôi đi đi lại lại theo một loạt các đường cong như cái kẹp tóc trong hơn 20 phút. Khi chúng tôi lên đến đỉnh của ngọn núi cuối cùng, tôi nhìn xuống qua những tán cây trụi lá và thấy rằng trong suốt thời gian và nỗ lực đó, chúng tôi chỉ mới đi được vài trăm feet (Nd: 1feet = 0,3m). Đó là lúc tôi chợt nhận ra rằng cái mà GPS gọi là khoảng cách một dặm, khi nó không ghi nhận có một con đường nào, hẳn phải có nghĩa là một dặm theo đường chim bay, mà trên con đường ngoằn ngoèo này, có thể còn nhiều hơn thế nữa.
Điều đó ổn thôi. Tôi thích đi bộ và Maya chịu đựng được điều đó. Một số con dốc hơi quá sức đối với cả hai chúng tôi. Tôi không mang theo nước nhưng Maya uống nước từ những dòng suối nhỏ chảy xuống từng khúc cua bên trong.
Đã có một số ngôi nhà ở phía dưới con đường, có thể trong hai dặm đầu
tiên, nhưng sau đó chỉ là thỉnh thoảng có mấy cái biển báo Không Xâm Phạm và Bán Đất được đóng đinh trên cây. Qua các bảng quảng cáo và tạp chí bất động sản, tôi biết rằng các cộng đồng ven núi có tầm nhìn xa, hồ nhân tạo và sân gôn lăn là những hoạt động kinh doanh lớn ở đây, nhưng chúng tôi đã đi vượt xa bên trên những thứ như vậy. Những nơi đó có đường trải nhựa và được bảo trì tốt. Tôi nghi ngờ chẳng có bất kỳ chiếc SUV sang trọng nào của Lexus và những chiếc Hummer viền mạ crôm mà tôi thấy dưới đó từng mạo hiểm đi trên những con đường như thế này. Thực ra lúc đó đã muộn, có lẽ còn một tiếng nữa là trời tối, và tôi thì lại không có điện thoại, nên nếu không đi đúng đường thì chúng tôi có thể gặp khó khăn. Tôi không lo lắng, nhưng tôi cảnh giác. Tôi có thể đốt lửa ở đây được không? Không. Chúng ta sẽ mất bao lâu để đi tới ngôi nhà gần nhất? Hai hoặc ba giờ, có thể lâu hơn nếu như trời tối đen. Tôi đang ăn mặc thiếu vải và cái lạnh ẩm ướt đang tràn vào. Maya, một chú chó dòng Border Collie, được lai tạo cho Cao nguyên Scotland, vì vậy cô ấy sẽ sống sót lâu hơn tôi. Liệu cô ấy có ăn thịt tôi không? Tôi hy vọng sẽ là như vậy, nhưng chỉ khi cô ấy thực sự đói cồn cào chứ không phải chỉ hơi đói bụng, và tôi hy vọng cô ấy sẽ chờ đợi cho đến khi tôi chết hẳn mới ăn.
Mưa từ nhỏ đến mức tôi gần như không thể phát hiện ra cho đến sương mù dễ chịu đến mức tôi không cần phải đội mũ trùm đầu lên. Trong phần lớn thời gian đi bộ, chúng tôi chỉ đi xuyên qua những khu rừng u ám, nhưng thỉnh thoảng chúng tôi lại tiến vào một khoảng trống và tôi có thể nói rằng nếu chúng tôi không đứng trong một đám mây thì quang cảnh sẽ khá tuyệt vời.
Cuối cùng chúng tôi cũng đến được nơi con đường kết thúc bằng một lối rẽ có hai đường lái xe. Một bên là sỏi đá um tùm mà không có dấu hiệu gì, bên kia thì có hai cột đá và một cánh cổng thép mở. Các hòm thư nằm ở phía dưới kia hàng dặm. Chúng tôi đi theo con đường cổng thép và đến ngôi nhà khi ngày chỉ còn vài phút ánh sáng. Lúc đó là sáu tháng trước, khi Maya và tôi đến nhà Lisa trong chuyến thăm năm ngày.
*
Đường lái xe còn lại dẫn đến một căn nhà gỗ cũng thuộc đất của Lisa, và đó là nơi Maya và tôi hiện đang sống. Đó là một bãi chứa theo đúng nghĩa nhất. Tôi đã thực hiện một số cải tiến trong những ngày đầu khi tôi nhận ra mình sẽ ở lại đây một thời gian và bây giờ tôi đã thiết kế nó một cách hoàn hảo cho Maya và tôi.
Cách căn nhà gỗ vài trăm thước là nhà của Lisa, một nơi thu hút sự chú ý thực sự. Một ngôi nhà khung chữ A lớn, sang lạ mắt với sàn và phòng khách ngoài trời có mái che hoàn chỉnh với đồ nội thất, quầy pha chế đồ uống, nhà bếp và lò sưởi đốt lửa, tất cả đều hướng ra một quang cảnh ngoạn mục, đứng tim, ngưng thở, chóng mặt của từng lớp từng lớp núi rút dần ra phía sau của rặng Blue Ridge. Bên trong ngôi nhà cực kỳ đẹp, có cửa sổ cao 30 foot nhìn ra khung cảnh quái vật đó và một dãy phòng chính nằm trên không gian gác xép phía sau cũng có tầm nhìn chính. Lisa nói với tôi rằng cô ấy thích khu vực này trong chuyến đi cùng tôi đến Virginia mười năm trước. Cô không thích lái xe đường dài nhưng cảm thấy khung cảnh và sự cô độc này còn hơn cả xứng đáng.
*
Tôi bắt đầu ngày mới một cách chậm rãi, đốt lửa, uống cà phê và ăn nhẹ, sau đó tôi và Maya đi dạo. Không có nhiều con đường mòn gần đó, vì vậy trong những ngày đầu, chúng tôi sử dụng những con đường dành cho động vật và đường thủy, cũng như đi phá bụi cây, nhưng cuối cùng chúng tôi đã tìm được đường đến phía bên kia ngọn núi, nơi có một khu rừng quốc gia tiếp giáp cung cấp rất nhiều những con đường mòn và những con đường chữa cháy.
Thông thường, chúng tôi trở lại cabin sau một vài giờ, cả hai đều mất sức
một ít. Tôi chuẩn bị một ít đồ ăn cho cả hai chúng tôi và điều đó tốn khoảng một giờ. Sau đó, nếu chúng tôi không có việc gì phải làm, điều mà thường không xảy ra, tôi có thể viết lách một chút vào buổi chiều. Trong ba hoặc bốn tháng đầu tiên chúng tôi ở đây, tôi ở chế độ thợ rừng vài giờ mỗi ngày. Giữa cabin và nhà chính có 11 cái lò sưởi đốt lửa trong nhà và ngoài trời
thay thế nên khi chúng tôi lần đầu tiên đến đây, Maya và tôi đã vào thị trấn và mua một đống đồ cắt gỗ đáng sợ; một chiếc cưa máy dài 20 inch và hàng chục món đồ liên quan. Lisa có một chiếc máy kéo cũ với phụ kiện xẻ gỗ đi kèm với nơi này, vì vậy tôi đã có thể thực hiện thao tác cắt gỗ nhỏ để đốt lửa khá đẹp.
Đó là những gì chúng tôi đã làm vào những buổi chiều trong mùa đông ôn hòa. Maya thực sự không giúp được gì nhiều. Cô không quan tâm đến mọi tiếng ồn và có xu hướng quan sát từ xa. Tôi đã không phải cắt quá nhiều cây gỗ vì rừng có ngổn ngang các loại cây đổ ở nhiều độ già khác nhau. Tất cả những gì tôi phải làm là cắt, tách và vận chuyển. Trong hai tháng đầu tiên, tôi đã dự trữ đủ số lượng gỗ cho mọi lò sưởi mà không cần phải đi ra khỏi gần 40 mẫu đất của Lisa. Nghỉ làm việc khiến tôi buồn tẻ nên tôi đã học cách xếp những đụm gỗ tròn cao bảy hoặc tám feet để một mảnh đất rộng 10 x 10 feet có thể lưu trữ và tẩm ướp tất cả số gỗ mà tôi có thể xử lý trong một tuần, và bây giờ chúng tôi có một loạt những đụm gỗ đó nằm rải rác xung quanh.
“Ở đó có nhiều gỗ hơn cả số lượng mà chúng ta sẽ sử dụng trong thập kỷ tới,” Lisa nói khi cô ấy nhìn thấy những gì tôi đã làm.
“Tôi biết,” tôi nói, “nhưng tôi bị dính mắc với hoạt động này.”
“Anh định tiếp tục chặt củi à?”
“Tôi bị dính mắc với hoạt động này,” tôi lặp lại.
“Vậy thì tôi đoán chúng ta sẽ cần một lò sưởi lớn,” cô nói.
Vì vậy tôi phải làm việc đó. Tôi dọn dẹp và san bằng một chỗ trong rừng giữa ngôi nhà và cabin gỗ. Nhờ những anh chàng sống ở sân đá nâng vác những khối nặng nề, tôi đã xây dựng một vòng đá cuội dài 8 feet được bao quanh bởi sân lát đá, nơi tôi đặt những chiếc ghế và bàn Adirondack màu xanh lá cây làm từ bình sữa nhựa tái chế. Đó là một dự án lớn và mất sáu tuần và tiêu tốn vài nghìn đô la của Lisa. Đôi khi Lisa và tôi đi chơi ở đó và uống rượu vang quanh đống lửa lớn, đôi khi chỉ có tôi và Maya.
*
Trước khi tới ở cabin, tôi đã đọc lại một số tài liệu về chiến tranh lạnh của John le Carré, dẫn đến đọc thêm một số tài liệu thời Stalin , rồi dẫn đến một số thứ về Solzhenitsyn và Shalamov gulag . Khi mà nó trở nên quá nặng nề, tôi tìm đến một số tác giả hài hước mà đã lâu rồi tôi không đọc; Perelman, Wodehouse, Woody Allen, Ring Lardner và những người khác. Khi thấy nhạt quá, tôi chuyển sang đọc kịch, không nhớ tại sao. Đó là khoảng thời gian trước khi tôi đến ở cabin gỗ và tôi nghĩ lúc đó mình đang chơi đùa với ý tưởng coi cuộc sống như một vở kịch của sự phi lý, điều đó thôi thúc tôi đọc The Theater of the Absurd của Martin Esslin, cuốn sách đã thôi thúc tôi đọc hoặc đọc lại. -đọc Beckett, Ionesco, Genet, Stoppard và sau đó là Albee, Sartre và Pinter. Tôi đi đến kết luận rằng, đối với tôi, tất cả các vở kịch đều thuộc hai loại; loại giống Waitng for Godot và loại khác.
*
(Nd: cuốn Mobydick của tác giả Herman Melville được coi là một trong những tiểu thuyết vĩ đại nhất của Mỹ. Nó kể về hành trình theo đuổi và săn một cá voi trắng khổng lồ của Ahab. Jed McKenna đã diễn giải câu chuyện đó thành sự ẩn dụ cho quá trình theo đuổi chân lý bằng mọi giá, điều này được nhắc tới và trích dẫn rất nhiều trong một cuốn sách khác của ông, Spiritual Incorrect Enlightenment. Đoạn dưới ông lại nhắc tới tác phẩm Mobydick đó.)
Dự án viết lách đầu tiên của tôi trong cabin bắt đầu bằng một vở kịch dài mang tên Fedallah. Nhân vật Fedallah này lấy từ trong cuốn sách Moby-Dick, đại diện cho Người Bí Ẩn; khía cạnh cổ xưa, tái sinh của Ahab, người mà hóa ra lại là tâm hồn đen tối của Melville được nhân cách hóa, mà hóa ra nó lại là sự phản chiếu của chính chúng ta. Nói tóm lại, Fedallah là hóa thân của người thay mặt cho một người đại diện cho cuộc đấu tranh của chính người đọc với con cá voi trắng của chính người đọc, hoặc đại loại như thế.
Vở kịch một người, một tập, ba màn sẽ trải qua một đêm dài với Herman Melville trong nghiên cứu về ngôi nhà ở ngoại ô New York của ông ấy, Arrowhead, khi ông ấy đấu tranh để xây dựng kiệt tác của mình đồng thời tự phá hủy cấu trúc bản thân mình. Trong cabin của tôi vào ban đêm, rất dễ hình dung ra Melville trong phòng làm việc của ông ấy. Tôi chỉ sử dụng nến và đèn sưởi khi viết hàng trăm trang ghi chú và che các phần tường bằng thẻ mục lục và bản phác thảo bảng phân cảnh. Ý tưởng này đòi hỏi một bối cảnh rất năng động. Ánh sáng, âm thanh và những bóng tối trên tường nham hiểm sẽ phải biến phòng làm việc yên tĩnh của Melville thành boong tàu Pequod, sự điên cuồng của cuộc rượt đuổi và sự hỗn loạn xoáy tròn đẫm máu của vụ giết người, nhưng hơn thế nữa, bên trong tâm trí sôi sục, hỗn loạn của Melville/Ahab. Một cơn giông bão hoành hành bên ngoài sẽ phản chiếu những cơn bão tương tự bên trong phòng và bên trong người đàn ông. Melville sẽ chuyển từ sự trầm ngâm lạnh lùng của tác giả sang cơn hưng cảm nóng bỏng của một tâm hồn bị tra tấn quằn quại trong nỗi đau đớn vì tự thiêu kéo dài, tất cả trong một căn phòng tối trong một đêm tối tăm và giông bão. Đại loại như vậy.
Khi bình minh ló dạng, chúng ta thấy Melville sắp chết ở bàn làm việc, được bao quanh bởi một núi trang viết tay khi ông ấy viết những lời cuối cùng về con cá voi bơi đi để lại một đứa trẻ mồ côi phía sau, và đại dương vẫn tiếp tục cuộn sóng như nó đã làm năm ngàn năm trước. Hạ màn.
Tôi chưa vượt qua được giai đoạn phác thảo, nhưng có lẽ một ngày nào đó tôi sẽ làm được. Lẽ ra tôi nên viết nó chỉ để đọc chứ không phải để sản xuất kịch, nhưng tôi nghĩ mình đã mất hứng thú khi thấy điều đó, với công việc tiếp theo, quá trình tiến hóa tự nhiên sẽ đưa nó từ Fedallah đến Ahab!, và cuối cùng là Ahab! Nhạc kịch!
*
Thế là tôi mất hứng thú và đốt cháy mọi thứ. Thay vào đó, tôi viết một vở
kịch dài 10 phút về đoạn hội thoại được biên soạn lại một chút giữa Ahab và người bạn đầu tiên trong đời của ông nhằm cô lập cốt lõi cuộc xung đột của Ahab. Sau đó, tôi bắt đầu vẽ nguệch ngoạc một số vở kịch ngắn khác để giải trí, và khi tôi ghép một vài vở kịch lại với nhau, tôi thấy rằng chúng đã hoàn thành một vòng cung đẹp mắt, vì vậy tôi gói chúng lại thành một vở kịch bảy đoạn và nó đã được xuất bản với tựa đề Play.
Sau đó, vì một lý do nào đó mà tôi đã quên mất, tôi bắt đầu quan tâm đến tương lai của trí tuệ nhân tạo. Tôi bắt đầu với Kurzweil và phân nhánh cho đến khi tôi nhận ra điều thú vị là AI cuối cùng sẽ quét sạch loài người. Điều đó tuyệt vời làm sao? Ý tôi là, bạn biết đấy , tôi cho rằng nó nên là đáng buồn, nhưng cũng khá buồn cười. Chúng ta đang chạy đua để tạo ra một trí thông minh tổng hợp có thể giết chúng ta hoặc biến chúng ta thành gia súc
mà không hề có ác ý hay ác tâm. Và đây không chỉ là một lý thuyết nhỏ kỳ lạ nào đó, nó có thể là điều không thể tránh khỏi, và rất nhiều người thông minh đang lo lắng về nó. Vì vậy tôi đã viết một vở kịch ngắn về điều đó và được nhà xuất bản cung cấp miễn phí. Tiêu đề ban đầu của tôi là Mặt trái bất ngờ của việc hôn máy nướng bánh mì kiểu Pháp, nhưng chúng tôi đã đổi tên nó thành Một ván cờ hay, hoặc Tôi đã học cách ngừng lo lắng và yêu thích điểm kỳ dị về công nghệ như thế nào (A Nice game of chess, or How I learned to stop worrying and love the technological singularity).
*
Và sau đó tôi bắt đầu viết một cuốn sách về trạng thái mơ. Nó không bắt đầu như một dự án sách; đó chỉ là điều tôi đã nghĩ đến khi đi dạo. Tôi bắt đầu viết nó ra để hiểu rõ hơn và nhận thấy đây là một chủ đề đầy thử thách và thú vị. Tuy nhiên, nó thật kỳ lạ, vì điều duy nhất bạn có thể nói chắc chắn về trạng thái mơ là bạn không thể nói bất cứ điều gì chắc chắn về nó, và thậm chí bạn cũng không thể nói điều đó một cách chắc chắn. Hoặc đó. Nhưng bất chấp thực tế là dù có thể có điều gì đó để nói hoặc không có gì có thể được nói về nó, vẫn có rất nhiều điều để nói.
*
Cabin gỗ mà Maya và tôi đang sống đã hơn tám mươi năm tuổi nhưng đã
được tân trang lại vào giữa những năm 1990 với cửa ra vào và cửa sổ tươm
tất, các thiết bị mới và mái nhà bằng kim loại màu xanh lá cây. Nó có nước từ giếng, một căn bếp nhỏ vừa đủ và một phòng tắm nhỏ vừa đủ với vòi sen và máy giặt/máy sấy xếp chồng lên nhau. Ngoại trừ phòng tắm và tủ quần áo, tất cả đều là một căn phòng lớn. Các cửa sổ hướng về phía Nam dọc theo hiên trước có mái che rộng và thông thoáng, lượng ánh sáng mặt trời khác nhau tùy theo mùa, tán lá và thời tiết. Nội thất mở cho cảm giác rất rộng rãi. Ống khói bằng đá đứng lớn ngăn cách nhà bếp nhỏ hơn với khu vực sinh hoạt và ngủ nghỉ lớn hơn. Một phía của ống khói là bếp đốt củi thông thẳng vào ống khói, còn phía khu vực sinh hoạt là một lò sưởi lớn, không hiệu quả bằng bếp củi nhưng ngồi trước nó sẽ thoải mái hơn rất nhiều.
Nội thất của cabin có thể chấp nhận được theo nghĩa đây là căn hộ đầu tiên (khi mới dọn ra ở riêng), nhưng khi tôi nhận ra mình sẽ ở lại một thời gian, tôi đã kiếm một chiếc giường mới, ghế tựa, ghế dài, khăn trải giường và một số thứ khác. Chiếc ghế dài, một bàn cà phê, một chiếc ghế bập bênh và một chiếc ghế tựa nằm ngả đặt ở phía trước lò sưởi. Ngoài ra còn có một bàn ăn nhỏ trong căn phòng lớn nơi tôi thỉnh thoảng viết và ăn. Tôi cũng đã mua một chiếc đèn dung nham. Nó tạo ra một chiếc đèn ngủ đẹp mắt và khiến cabin có cảm giác hấp dẫn hơn là ma quái vào ban đêm, đồng thời mang lại cho cabin một ánh sáng mát mẻ xa lạ khi nhìn từ xa.
*
Lisa đi công tác khắp tiểu bang cả tuần nhưng cô ấy thường về nhà vào cuối tuần. Đó là khi chúng ta quây quần bên nhau dùng bữa hay ngồi trước đống lửa, uống rượu vang và trò chuyện. Bởi vì quá trình chuyển hóa mà cô ấy bắt đầu trong thời gian chúng tôi ở cùng nhau ở Mexico mười năm trước, cô ấy và tôi hiểu nhau nhiều hơn so với việc chúng tôi có thể hiểu người khác hoặc những người khác có thể hiểu chúng tôi.
Tôi dường như uống rượu mỗi đêm. Người cuối cùng tôi ngồi uống rượu cùng là Frank, bố của Lisa, khi ông cố gắng dạy tôi về mạch nha đơn và xì gà ở Mexico. Mấy ngày nay tôi uống chỉ là rượu vang rẻ tiền, thứ rượu đỏ nồng nàn đựng trong bình. Giới hạn của tôi là hai ly. Nếu tôi có ba ly tôi sẽ cảm thấy nó vào ngày hôm sau. Tôi uống rượu vào ban đêm trong khi ngồi trước đống lửa, Maya dưới chân tôi, và tôi đọc sách.
Đó là sự tồn tại của nhân vật người đàn ông miền núi của tôi từ mùa thu đến mùa xuân cho đến khi một ngày nọ, đột nhiên có tiếng gõ cửa nhà tôi.