Chương 11

Trong trạng thái bất nhị, thực sự thì nói nó là một trạng thái cũng không đúng, không hề có chủ thể nhận thức cũng không có đối tượng nhận thức;
sự sáng tạo mở ra một cách tự nhiên, thoát khỏi cái tâm trí bị chia rẽ. Các trạng thái chỉ là tạm thời; chúng đến và đi trên một cái nền đóng vai trò hỗ trợ cho tất cả các trạng thái khác nhau phát sinh. Tính liên tục này là sự an toàn và yên bình tối thượng. Nếu chúng ta thiếu sáng suốt, chúng ta dễ bị dẫn dắt cho tin rằng sự yên bình phi trạng thái này là kết quả đến từ hành động. Vì vậy, chúng ta quy nó thành một cái gì đó bên ngoài chúng ta. Theo một cách tự nhiên, tri kiến sáng suốt sẽ giải thể tất cả các mô thức, thứ tạo ra các trạng thái khác nhau, và cho chúng ta thấy trạng thái phi trạng thái là thứ vô tác nhân, nó tự nó tồn tại. Khi không có đối tượng, người tìm kiếm sẽ biến mất. Tất cả những gì còn lại là cái vốn đã có ngay từ đầu. Hiện tượng này có thể gọi là giác ngộ.

Những từ ngữ này chỉ có thể phát triển đầy đủ và tái hòa nhập trong sự lắng nghe không định hướng. Sự lắng nghe này là sự cởi mở, sự sống thiền. Tất cả những gì được nghe thấy trong sự lắng nghe này đều chỉ hướng trực tiếp tới thực tại tối hậu. Nó không thể được hình dung trong lời nói hoặc suy nghĩ. Chúng ta cảm thấy nó trong nhiều khoảnh khắc trong suốt cuộc đời mình, chẳng hạn, khi ở trong trạng thái choáng ngợp hoặc ngạc nhiên không có suy nghĩ.

Mục đích thực sự của sự tồn tại của chúng ta là chỉ tồn tại, không có điều kiện. Đây là cách sống duy nhất hứa hẹn mang lại niềm vui, sự tự do và
yên bình. Có nhiều cách để ta tự biết những điều kiện của mình, tùy thuộc vào tính khí của một người. Tuy nhiên, điều cần thiết là chúng ta không nên, dù chỉ trong một khoảnh khắc, đánh mất tri kiến của sự thật rằng Chân Ngã, tính liên tục, Sự Sống, không phải là một trải nghiệm thuộc tinh thần hay tâm linh và không thể được tìm thấy ở cấp độ của kinh nghiệm hoặc những tu tập tinh thần. Chỉ có tâm trí trong sáng đã biết những giới hạn của nó mới có thể giải phóng ra con đường tới cái vượt ra ngoài nó. Nếu tâm trí
vẫn bối rối và còn nỗ lực để đạt được một cái gì đó, dù tinh tế đến đâu, dù cởi mở đến đâu, chắc chắn kết quả của nó vẫn là quay đi quay lại trong cùng một vòng tròn luẩn quẩn trong cấu trúc cũ. Cái gọi là cách tiếp cận tiến bộ như vậy hoàn toàn không hiệu quả. Sự suy ngẫm sâu sắc về thực tại tối hậu không phải là vấn đề biện chứng mà là buông bỏ sự dính mắc của cái trí thức bị phân mảnh để nhường chỗ cho sự thức tỉnh của ý thức phổ quát. Một trải nghiệm của trật tự này vượt ngoài tất cả các mô tả. Nó trống rỗng khỏi tất cả các nội dung khái niệm. Nó tương ứng với cái bản thể nằm
ngoài thời gian của chúng ta và bằng cách siêu việt sự cảm quan, nó tiết lộ
rằng bản thân nó là vĩnh hằng.

Bản chất thực của con người thoát khỏi không liên quan đến những phẩm chất mà môi trường ban cho anh ta. Một khi anh ta không còn đồng hóa với những định nghĩa được đưa ra bởi những môi trường xung quanh này, anh ta phát hiện ra là mình là độc nhất và tự do. Sự tự do sống trọn vẹn là thoát khỏi mọi khái niệm như hình ảnh của bản ngã. Phóng chiếu một “hình ảnh cái tôi,” cũng giống như bất kỳ đối tượng nào khác, bị điều kiện hóa bởi các yếu tố thuần túy ngẫu nhiên nhưng luôn phụ thuộc vào cái chủ thể tối hậu bất biến: ý thức thuần khiết. Đó chỉ là cái tôi giả tưởng đang cảm thấy bị thiếu tự do mà thôi. Vắng đi bản ngã thì sự thiếu thốn đó không thể bén rễ.

Những câu hỏi liên quan đến “Ta là ai?” luôn xuất phát từ trạng thái mất cân bằng. Thế giới này là một vấn đề đối với ai? Niềm vui, nỗi đau, thích và không thích, tồn tại với ai? Với một cái tôi, thứ chỉ là một sáng tạo của xã hội, một thực thể hư cấu. Khi mà bản ngã nhìn thấy sự thật này đủ rõ ràng, mọi vấn đề của nó tan biến. Những câu hỏi này tìm thấy câu trả lời của chúng trong sự giác ngộ, cái “Ta tồn tại” nằm ngoài ngôn từ, suy nghĩ và biểu hiện. Sự tìm kiếm đưa bạn vượt ra ngoài cái đã biết, đến cái nền của cái đã biết. Ở đây câu hỏi trở thành câu trả lời và nó được tái nhập vào trong sự nhận thức tĩnh lặng.

Bản ngã thích điều hướng mọi thứ và mọi hoàn cảnh theo theo mong muốn của nó, nhưng sự tồn tại của nó chỉ là một cái bóng phụ thuộc vào cái thân-tâm đang phóng chiếu nó. Trong sự hiện diện của guru, bản ngã không bị loại bỏ, nhưng tri kiến sáng tỏ mà người thầy truyền đạt tới chúng ta dần dần giải thoát chúng ta khỏi những đặc điểm mà ái bản ngã giả tạo chiếm hữu. Sớm hay muộn, bản ngã đã được nhìn rõ ràng sẽ được tái hấp thu
vào trong cái bản chất và cái nền của nó, đó là sự hiện diện sáng suốt. Nó
chỉ xuất hiện khi được gọi và không bao giờ đánh cắp chiếm hữu ánh sáng làm của riêng nó nữa.

Giác ngộ là tức thời nhưng tâm trí thì trở nên rõ ràng hơn một cách dần dần. Sự sáng tỏ của tâm trí mang lại sự thư giãn khỏi những khuôn mẫu cũ, giải phóng năng lượng, từ đó kích thích tri kiến sáng suốt. Nó dẫn chúng ta đến lối sống thoát khỏi tất cả nỗ lực để đạt được một cái gì đó, thoát khỏi sự căng thẳng gây ra bởi việc chờ đợi một cái gì đó xảy ra, kỳ vọng một điều gì đó.

Trong khi chúng tôi lắng nghe vị thầy trình bày quan điểm tâm linh, mọi thứ dường như khá rõ ràng, không vướng mắc, nhưng sau đó, chúng ta dường như rời khỏi trung tâm thực sự của mình. Tại sao lại thế này?

Khi chúng ta lắng nghe vị thầy nói về sự thật, sự lắng nghe của chúng ta là sự hoàn toàn tiếp nhận, chúng ta cởi mở với những gì được nói. Nó mang thân thể và cuộc sống vào bên trong chúng ta. Những khuôn mẫu cũ của bản ngã chỉ bị gián đoạn khi chúng ta lắng nghe guru, sau đó chúng chiếm lại chỗ trong đời sống hàng ngày. Bạn phải coi chúng là những đối tượng và do đó bạn sẽ tự nhiên thấy mình nằm ngoài lĩnh vực ảnh hưởng của chúng.
Nếu bạn không còn tuân theo các khuôn mẫu cũ của mình, chúng sẽ bị cô lập và điều này sẽ thiết lập lại bạn trong chân tánh của mình, giống như điều mà bạn đã trải nghiệm khi ở trong sự hiện diện của nhà hiền triết. Vị trí này, bước đệm này, sẽ dần biến mất khi trải nghiệm này trở nên ngày càng thường xuyên hơn.

Liệu chúng ta có thể tiến gần hơn đến việc hiểu thực tại, “vạn hữu đúng như tự nó”, thông qua ngôn từ và suy nghĩ?

Ngôn ngữ và lời nói không thể diễn đạt được cái không thể nghĩ bàn. Lời nói nằm dưới sự nhân từ của chủ nghĩa kinh nghiệm mang bản ngã là trung tâm. Chúng tìm thấy nền tảng của chúng là ở trong ý thức, nơi mà từ đó chúng phát sinh và từ đó chúng quay trở lại. Bản ngã có khởi nguồn của nó từ một hình ảnh tinh thần: “Tôi là cơ thể.”

Suy nghĩ tự phát thoát khỏi mọi mâu thuẫn, không để lại samskara, không tàn dư. Ở trên và siêu việt các cực đối lập đẹp/xấu, tốt/xấu,… là cái ý thức thống nhất mà tâm trí không thể nắm bắt, cũng không thể hiểu được, vì nó
vượt khỏi mọi khái niệm.

Chúng ta không biết mọi thứ, chúng ta chỉ biết chúng ở bề ngoài. Để biết bản thân một sự vật, chúng ta phải vượt xa ra khỏi vẻ bề ngoài của nó, những thứ chỉ tên gọi và hình thức. Chúng ta chỉ có thể thấy thực tại của một đối tượng khi chúng ta là thực tại đó: tri ​​thức không có đối tượng.

Tôi biết có những khoảnh khắc mà tôi hoàn toàn thỏa mãn, không có gì
thiếu thốn, và tôi thoát khỏi mọi nỗ lực hay kỳ vọng. Ngoại trừ những khoảnh khắc hiếm hoi này, tôi thường có xu hướng cảm thấy khá ảm đạm.

Bản ngã sống trong sự bổ sung và đôi khi ảm đạm vì vậy nó tìm kiếm niềm vui để tránh “sự ảm đạm” đối lập với nó. Tránh sự ảm đạm là điều hoàn toàn không thể, vì hạnh phúc và ảm đạm là mặt ngửa và mặt sấp của cùng một đồng xu. Những khoảnh khắc của sự thỏa mãn mà bạn trải nghiệm không nằm trong mối quan hệ chủ thể/đối tượng khi mà bạn nói “Tôi tự do, tôi hạnh phúc”. Những khoảnh khắc không có suy nghĩ, ước mơ hay sự đại diện này là chân tánh, là sự viên vãn không thể phóng chiếu của chúng ta. Nó là một trải nghiệm gặp phải nơi mà không còn người trải nghiệm cũng không còn một đối tượng được trải nghiệm. Chỉ có cái thực tế này là tâm linh. Tất cả các trạng thái khác, dù là “cao cấp”, cho dù được tạo ra bởi
kỹ thuật, kinh nghiệm hoặc thuốc, thậm chí là trạng thái samahdi thường được tôn vinh, cũng là hiện tượng—và mang theo dấu vết của tính đối tượng. Nói cách khác, vì cái bạn thực là không phải là một trạng thái, nó
chỉ là lãng phí thời gian và năng lượng khi theo đuổi ngày càng nhiều trải nghiệm với hy vọng đến gần hơn với cái phi trải nghiệm.

Làm thế nào để ta có thể buông bỏ những trải nghiệm để đi đến sự thấu hiểu phổ quát?

Bạn thấy rằng trong một trải nghiệm vẫn có một người trải nghiệm bị mắc kẹt trong khuôn mẫu của việc đi vào và đi ra khỏi các trạng thái. Sự hiểu biết phổ quát là nhận thức đột ngột rằng người nhận thức những trạng thái này không bị ảnh hưởng bởi chúng, rằng chúng xuất hiện bên trong người nhận thức. Kiến giải này xảy đến trong nháy mắt khi tất cả các mảnh vỡ
ngăn chúng ta thấu hiểu, mặc dù chúng chỉ điểm hướng tới nó, được mở ra bên trong sự quan sát không bị tác động.

Sự nhận thức là yếu tố thiết yếu cho phép không hiểu trở thành hiểu. Nó không phải là kết quả của việc tích lũy kiến thức như khi chúng ta học một cái gì đó, một ngôn ngữ hoặc một nhạc cụ chẳng hạn. Nó tức thời như một tia chớp, nơi mà các yếu tố khác nhau trước nó đột nhiên được nhìn thấy đồng thời và được sắp xếp lại, giống như các hạt được nam châm hút sẽ rơi vào một khuôn mẫu khi chúng trở nên dính với nó. Tri kiến đột ngột này có thể loại bỏ tất cả các vấn đề trước đó mà không để lại bóng dáng nhỏ nhất của sự không hiểu. Sự tái hấp thu vào sự hiểu biết tổng thể này giải phóng tất cả các năng lượng thường được đúc thành các khuôn mẫu thiết lập và
mở ra con đường hướng tới chân lý tối thượng, sự nhất thể.

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *